Hài mốc hồng - Paphiopedilum Micranthum

Hài mốc hồng hay còn được gọi với cái tên yêu kiều Hài ngọc nữ Paphiopedilum micranthum là loài Hài của vùng biên giới phía Bắc cho hoa nhỏ và đẹp. Hoa rất giống với hoa một số loài Đỗ quyên có mật. Loài hoa này thu hút các loại côn trùng tới thụ phấn

Mô tả:

Hài mốc hồng còn được biết đến với cái tên Hài ngọc nữ (Paphiopedilum micranthum), cây có 3-5 lá dài 25 cm, rộng 3 cm, dò hoa dài 9-25 cm, hoa như một chiếc muôi lớn dài 10 cm, rộng 5-6 cm, thường nở vào khoảng tháng 3 đến tháng 5. Hoa rất giống với hoa một số loài Đỗ quyên có mật và thường thu hút côn trùng tới thụ phấn.

Phân bố:

Lan Hài mốc hồng hay hài ngọc nữ chủ yếu ở miền Bắc Việt Nam (tập trung tại các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang) và vùng Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam (Trung Quốc).

Cây lan hài Hài mốc hồng - Paphiopedilum Micranthum - hài ngọc nữ

Hài mốc hồng - hài ngọc nữ - Paphiopedilum Micranthum

Tên Việt Nam: Lan hài mạng đỏ tía
Tên Latin: Paphiopedilum micranthum
Đồng danh: Paphiopedilum micranthum T. Tang & F.T. Wang, 1951.
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Lớp (nhóm): Lan đất

Đặc điểm nhận dạng: Cây lâu năm, có 3 - 5 lá xếp thành 2 dãy; thân rễ có đường kính 2 - 3 mm, dài đến 25 cm. Lá thường hình thuôn - bầu dục, cỡ 5 - 12 x 1,5 - 2 cm, mặt trên màu lục với các đốm to màu lục thẫm, mặt dưới có nhiều chấm màu tím - tía. Cụm hoa có cuống dài 9 - 25 cm, mang 1 hoa. Hoa không có mùi, thường màu hồng hay vàng nhạt, thẫm hơn về chóp, rộng 6 - 8 cm và có mạng gân màu đỏ tía thẫm. Lá đài ở gần trục hoa hình trứng rộng, cỡ 1,5 - 3,6 x 1,7 - 3 cm; lá đài kia cỡ 1,8 - 3,3 x 1,1 - 2,5 cm; cánh hoa hình trứng ngược rộng, chóp tròn, cỡ 1,9 - 4,3 x 2,3 - 4,4 cm, có lông mép và nhiều lông dài màu trắng ở mặt trong; môi hình trứng rộng, lõm sâu, mép cuốn vào trong, cỡ 5 - 10 x 3,4 - 5,6 cm; nhị lép lồi, hình thuôn rộng hay hình bầu dục, dài 5 - 10 mm.

Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 3 - 5. Tái sinh bằng thân rễ và hạt. Mọc thành từng đám nhỏ dưới tán rừng nguyên sinh rậm thường xanh nhiệt đới mưa mùa cây lá kim rất ít khi hỗn giao cả với cây lá rộng trên núi đá vôi, ở độ cao thường 900 - 1600 m, ở chân các vách gần đỉnh và đỉnh núi, nơi có nhiều đất và rêu, có độ ẩm cao.

Phân bố:

Trong nước: Hà Giang (Quản Bạ: Cán Tỷ và Bát Đại Sơn, Yên Minh: Lao Và Chải, Vị Xuyên: Phong Quang), Tuyên Quang (Na Hang), Cao Bằng (Trà Lĩnh: Quốc Toản), Bắc Kạn (Chợ Đồn: Bản Thi).

Thế giới: Trung Quốc.

Giá trị: Loài cây làm cảnh quý vì hoa có môi to, màu sắc đẹp hài hòa và to so với kích thước của cây. Dạng cây có hoa màu trắng rất hiếm gặp, có giá trị đặc biệt để lai tạo các dạng Hài mới.

Tình trạng: Loài vốn có khu phân bố không quá hẹp và số lượng cá thể không ít, nhưng nơi cư trú bị chia cắt rất mạnh. Chỉ trong vài năm cuối cùng của thế kỷ trước đã bị thu hái ồ ạt đến hàng tấn, đến mức kiệt quệ để xuất khẩu và trồng làm cảnh ở trong nước vào dịp sau Tết Nguyên đán, kèm theo môi trường sống là rừng bị thu hẹp do chặt gỗ và lửa rừng nên đang bị tuyệt chủng.

Phân hạng: EN A1a,c,d+2d, B1+2e.

Biện pháp bảo vệ: Đã liệt kê vào Phụ lục 1 của công ước CITES và Danh mục Thực vật rừng, Động vật rừng nguy cấp, quý hiếm (nhóm 1) của Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ để nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích th­­­ư­ơng mại. Bảo vệ chung trong các Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn, Phong Quang và Na Hang. Đồng thời nhân rộng việc gieo ươm để vừa tạo nguồn cây làm cảnh đồng thời bảo vệ nguồn gen.

Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 466.

Bài Viết Mới

Bài Đọc Nhiều

Liên hệ quảng cáo

Tắt Quảng Cáo [X]
Kyoryo Nhật Bản